Thú lông nhím mỏ ngắn
Thú lông nhím mỏ ngắn

Thú lông nhím mỏ ngắn

Thú lông nhím mỏ ngắn (Tachyglossus aculeatus), là một trong bốn loài thú lông nhím còn sinh tồn và là thành viên duy nhất của chi Tachyglossus. Thú lông nhím mỏ ngắn được bao phủ bởi lớp lông cứng và gai nhọn, chúng có một cái mõm và cái lưỡi chuyên biệt để sử dụng bắt mồi với tốc độ tuyệt vời. Cũng giống như các loài động vật đơn huyệt khác còn tồn tại, thú lông nhím mỏ ngắn cũng là loài đẻ trứng.Thú lông nhím mỏ ngắn có chi trước và móng vuốt cực kỳ mạnh mẽ, cho phép nó đào hang một cách nhanh chóng. Để có thể tồn tại, chúng đào những cái hang sâu dưới lòng đất. Nó có khả năng chịu đựng tốt trong môi trường có mức độ cao khí carbon dioxide và mức độ thấp oxy. Nó không có vũ khí hay khả năng chiến đấu, trước những kẻ săn mồi, chúng tự vệ bằng cách uốn cong cơ thể thành một quả cầu gai khiến cho bất cứ kẻ săn mồi nào cũng phải dè chừng. Thú lông nhím không có khả năng tiết mồ hôi và là động vật thân nhiệt kém, do đó, nó có xu hướng tránh hoạt động vào ban ngày trong thời tiết nắng nóng, và nó có thể bơi nếu cần thiết. Mõm của chúng giúp phát hiện những gì xung quanh đó.Trong suốt mùa đông, nó đưa cơ thể vào trạng thái hôn mê sâu và ngủ đông để tiết kiệm năng lượng và giảm sự trao đổi chất. Thú lông nhím cái chỉ đẻ một quả trứng mỗi năm, và thời kỳ phối giống là thời gian duy nhất trong năm chúng gặp nhau, sau đó cả con đực và con cái không có liên hệ nào nữa. Con non mới đẻ có kích thước bằng một quả nho, nhưng phát triển nhanh chóng nhờ vào nguồn sữa giàu chất dinh dưỡng của mẹ chúng. Chúng phát triển trong túi của mẹ chúng và sau khoảng 6 tháng, chúng rời khỏi hang bắt đầu cuộc sống tự lập và cũng không còn mối liên hệ nào với mẹ của chúng nữa.Loài này được tìm thấy trên khắp lục địa Úc và vùng ven biển, núi cao ở Tây nam New Guinea, nơi mà nó được biết đến với tên gọi là mungwe trong ngôn ngữ DaribiChimbu.[2] Nó không bị đe dọa tuyệt chủng, nhưng những hoạt động của con người như săn bắn, phá hủy môi trường sống, cùng với việc di cư của các loài động vật gây hại và ký sinh trùng, đã làm giảm việc phân phối thú lông nhím mỏ ngắn tại Úc. Nỗ lực gây giống thú lông nhím trong điều kiện nuôi nhốt đã không thành công, khi không có con nào đạt đến độ trưởng thành. Tuy nhiên, thú lông nhím có thể tồn tại bởi nguồn thức ăn của chúng chỉ là kiếnmối, và nó có thể tồn tại trong môi trường bị hạn chế các nguồn tài nguyên.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thú lông nhím mỏ ngắn http://www.dpiw.tas.gov.au/internnsf/WebPages/BHAN... http://www.geocities.com/Athens/Delphi/2970/echidn... http://www.departments.bucknell.edu/biology/resour... http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/account... http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/account... http://fossilworks.org/bridge.pl?a=taxonInfo&taxon... http://www.irmng.org/aphia.php?p=taxdetails&id=106... http://www.iucnredlist.org/details/41312 http://www.tierstimmen.org/en/database?field_spec_... http://www.bbc.co.uk/nature/wildfacts/factfiles/68...